tăng cường liên kết đào tạo giữa cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh…
Khi những cơn mưa xuân lất phất bay cũng là lúc Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đâm chồi, nảy lộc và cho thu hái vụ đầu tiên trong năm.
Mặc dù sản lượng chỉ bằng 50% so với Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên chính vụ nhưng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên xuân có ưu điểm là nước màu xanh cốm, ngọt hậu, ít vị chát, giá bán cũng cao hơn khoảng 20% so với các lứa Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên khác trong năm.
Đến xã Phúc Trìu (T.P Thái Nguyên) vào một ngày đầu Xuân, chúng tôi thấy nhiều nương Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đã vươn lên xanh ngát, búp non mơn mởn, căng tràn nhựa sống. Được đắm mình trong những nương Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên, bao sự mệt mỏi, âu lo trong lòng dường như tan biến. Dừng chân tại Hợp tác xã Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên Thủy Thuật (HTX), ở xóm Lai Thành, ngay từ cổng vào chúng tôi đã ngửi thấy hương Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên thơm vấn vít. Rót mời chúng tôi thưởng thức chén trà xanh sóng sánh, anh Ngô Viết Thuật, Giám đốc HTX cùng vợ là chị Phạm Thị Thủy phấn khởi: Chúng tôi đang tranh thủ đóng hàng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên xuân để kịp gửi cho khách. Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên được chúng tôi chia ra nhiều loại, gồm có Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đinh, Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên tôm nõn, Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên móc câu… Nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, HTX cũng đóng từng gói nhỏ và loại 0,2kg, 0,5 kg, 1kg/túi. Hiện nay, HTX đang bao tiêu sản phẩm với diện tích 21ha, Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên được bán với giá từ 250 nghìn đến 3 triệu đồng/kg. Các sản phẩm của HTX đều được dán tem truy xuất nguồn gốc.
Rời xã Phúc Trìu với những đồi Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên bát úp mơn mởn, chúng tôi đến Khe Mo, một trong những xã có diện tích Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên khá lớn của huyện Đồng Hỷ. Trên lưng chừng đồi thuộc xóm Tiền Phong, gia đình chị Nguyễn Thị Hương và anh Trần Văn Phương cũng đang tranh thủ thu hái lứa Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên xuân trên những luống Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên uốn lượn đẹp mắt. Trò chuyện với chúng tôi, chị Phương hào hứng chia sẻ: Từ tháng 12 Âm lịch, gia đình tôi bắt đầu đốn Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên, tạo tán, sau đó dọn dẹp cỏ dại, bón phân, phun vôi lên cây để hạn chế mầm bệnh. Sau Tết, trời nắng ấm cộng với có mưa nhỏ nên Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên lên xanh tốt. Đến nay, sau 45 ngày, Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên bắt đầu cho thu hoạch. Lứa Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đầu tiên, cây chắt chiu dưỡng chất nên bao giờ cũng thơm ngon hơn những lứa Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên còn lại của năm. Mặc dù chỉ đạt 50% sản lượng so với Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên chính vụ nhưng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên xuân được nhiều khách hàng ưa chuộng bởi độ ngọt béo, vị ngậy, thơm cốm. Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên xuân chúng tôi bán với giá 120.000 đồng/kg, cao hơn 20.000 đồng/kg so với Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên thường. Trung bình mỗi tháng, nhà tôi thu hoạch được 1,2 tạ Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên búp khô, thu nhập cũng đạt trên 12 triệu đồng. Từ cây Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên, nhà tôi cũng như một số hộ dân trong xóm có nguồn thu nhập ổn định, không phải đi làm ăn xa.
Gia đình anh Ngô Viết Thuật, Giám đốc HTX Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên Thủy Thuật, ở xã Phúc Trìu (T.P Thái Nguyên) đóng gói, dán tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên.
Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi được biết, để có sản phẩm Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên thơm ngon, từ lúc thu hoạch cho đến khi ra thành phẩm, người dân các vùng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên trên địa bàn tỉnh đã thực hiện tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình kỹ thuật, cụ thể như: thu hái khi Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đến lứa, tránh để ban. Sau khi hái xong, các búp Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên được đưa vào sao trực tiếp chứ không để qua đêm khiến Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên bị héo. Đặc biệt, bà con cũng đã ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất như: sử dụng hệ thống tưới tiết kiệm để giảm công lao động, sử dụng máy hút chân không để bảo quản Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên; sản xuất Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên theo hướng hữu cơ… Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên sao xong được lấy hương cẩn thận rồi bảo quản trong túi hút chân không để tránh ẩm mốc.
Nhờ sự nỗ lực số gắng của bà con cùng sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương và ngành chức năng, từ năm 2019 đến nay, toàn tỉnh đã có trên 60 sản phẩm Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đạt chứng nhận sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn 3 sao, 4 sao. Nhờ vậy, chất lượng và khâu đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên được nâng cao rõ rệt. Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đã trở thành cây trồng mũi nhọn mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh với giá trị sản phẩm thu được trên 1ha đạt từ 300-500 triệu đồng, tại các vùng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên đặc sản còn đạt từ 500-800 triệu đồng/ha.
Toàn tỉnh hiện có hơn 22.300ha Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên, sản lượng trung bình đạt trên 244 nghìn tấn/năm. Để có sản phẩm Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên chất lượng, cho năng suất cao, trong những năm qua, tỉnh đã có cơ chế hỗ trợ bà con trồng mới, trồng lại giống Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên trung du bằng Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên giâm cành, trung bình mỗi năm từ 800-1.000ha. Nhờ vậy, hiện nay, diện tích Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên giống mới của tỉnh đã chiếm trên 80%. Để góp phần thúc đẩy sản xuất Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên, năm 2021, tỉnh đã ban hành cơ chế hỗ trợ 100% chi phí lần đầu cấp giấy chứng nhận VietGAP (mức hỗ trợ tối đa không quá 6 triệu đồng/ha), diện tích hỗ trợ là 450ha. Cùng với đó, tỉnh tiếp tục hỗ trợ bà con thực hiện việc chuyển đổi sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam năm thứ 2 đối với 60ha Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên ở các huyện: Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương và T.P Thái Nguyên; hỗ trợ 40% kinh phí vật tư và 100% kinh phí cấp chứng nhận sản xuất hữu cơ. Ngoài ra, bà con cũng được hỗ trợ 50% giá mua máy, thiết bị bảo quản Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên búp khô và 40% chi phí đầu tư công nghệ tưới tiết kiệm cho Chè Thái Nguyên, Trà Thái Nguyên với diện tích tối thiểu 2ha trở lên…
Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh đã có gần 31.700 hộ thoát nghèo, riêng ở các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) có trên 11.300 hộ thoát nghèo. Đến đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh có 19 xã, 75 xóm ĐBKK vùng dân tộc và miền núi thoát khỏi tình trạng ĐBKK; 47 xã thuộc Chương trình 135, 6 xã ĐBKK đạt chuẩn nông thôn mới. Vậy, lời giải cho bài toán giảm nghèo bền vững là gì?
Tập trung nguồn lực cho công tác giảm nghèo
Nhìn lại quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, đối với tỉnh ta có nhiều thách thức đặt ra vì tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Qua điều tra, phân tích về nguyên nhân nghèo thì có tới trên 90% số hộ nghèo do thiếu vốn đầu tư, thiếu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, thiếu sức lao động hoặc do trong nhà có người mắc bệnh hiểm nghèo… Từ xác định rõ nguyên nhân dẫn đến nghèo khó của người dân, các cấp, ngành chức năng của tỉnh đã quyết liệt vào cuộc, tập trung các nguồn lực đầu tư của Nhà nước thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo.
Trong giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh đã huy động được 630 tỷ đồng thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững, trong đó có gần 549 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương, trên 80 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh đối ứng. Để tiền vốn đầu tư thật sự phát huy được hiệu quả, Thái Nguyên lựa chọn, đầu tư ưu tiên cho các xã có nhiều hộ nghèo, xã ĐBKK, chủ yếu là các công trình hạ tầng cơ sở theo nguyện vọng của nhân dân. Cũng trong giai đoạn này, các cấp, ngành chức năng của tỉnh đã triển khai thành công 90 mô hình giảm nghèo; 485 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế với tổng số gần 42.000 lượt hộ tham gia. Các cấp, ngành cũng đã tổ chức 96 lớp tập huấn về nâng cao năng lực giảm nghèo cho 7.629 lượt người có uy tín và 9.790 cán bộ cơ sở.
Theo bà Nguyễn Thị Quỳnh Hương, Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Phó Ban Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình giảm nghèo tỉnh đúc kết: Chương trình giảm nghèo được các cấp, ngành chức năng xây dựng phù hợp với từng năm và cả giai đoạn; tạo được sự đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, hiệp lực của toàn xã hội trong triển khai thực hiện và khơi dậy được ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo trong phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của các cấp, ngành và mọi người dân là lời giải cho bài toán xóa giảm nghèo bền vững trên toàn tỉnh.
Để nông dân “bắt được cá to hơn”
Hiện nay, toàn tỉnh có gần 1,3 triệu dân, trong đó có trên 877 nghìn người sinh sống ở vùng nông thôn, với gần 557 nghìn lao động từ 15 tuổi trở lên. Tại thời điểm tháng 2-2021, trên địa bàn tỉnh có 70% lao động đã qua đào tạo, tăng 12% so với cùng thời điểm năm 2016. Với người nông dân, được tham gia các lớp đào tạo nghề, đồng nghĩa với việc trao thêm cơ hội xóa giảm nghèo; giúp họ “bắt được cá to hơn”.
Sau khi được tham gia lớp đào tạo nghề chăn nuôi thú y, ông Miêu Văn Tân, ở xóm Táo, xã Sơn Cẩm (T.P Thái Nguyên) đã đầu tư phát triển chăn nuôi gà với quy mô trung bình khoảng 4.000 con/lứa, cho thu nhập trên 650 triệu đồng/năm.
Nhưng để “bắt được cá to hơn” thì phải kể đến việc triển khai, thực hiện Đề án Đào tạo nghề (ĐTN) cho lao động nông thôn (LĐNT) theo Quyết định 1956 của Chính phủ. Nhiều nông dân sau học nghề, vận dụng kiến thức vào sản xuất, kinh doanh đã làm thay đổi được cuộc sống của chính gia đình mình. Ông Mông Quốc Dũng, Trưởng phòng Dạy nghề, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết: LĐNT tham gia ĐTN là giải pháp hiệu quả nhất để nâng cao nhận thức, làm thay đổi tư duy của người nông dân trong phát triển kinh tế hộ.
Đáp ứng cho nhu cầu học nghề của nông dân, toàn tỉnh có 50 cơ sở dạy nghề hoạt động hiệu quả, trong đó gồm 12 trường cao đẳng; 8 trường trung cấp, 13 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và 17 cơ sở khác tham gia ĐTN theo Đề án 1956 của Chính phủ, với tổng số 415 giáo viên tham gia dạy nghề. Đặc biệt là tỉnh có chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với cả doanh nghệp tham gia ĐTN, tuyển dụng lao động sau đào tạo và người học nghề cũng được hỗ trợ tiền học phí.
Trao đổi với chúng tôi, bà Nguyễn Thị Quỳnh Hương cho biết: Để nông dân “bắt được cá lớn”, trong tổ chức ĐTN, Thái Nguyên không chạy theo số lượng, mà tập trung đào tạo các nghề gắn với thế mạnh và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Kết quả trong 5 năm gần đây, toàn tỉnh đã tuyển sinh, ĐTN cho gần 20 nghìn người, trong đó hơn 7.800 người học nghề phi nông nghiệp; hơn 12 nghìn người học nghề nông nghiệp... Ngay sau tham gia các lớp ĐTN, tại các địa phương đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế mang lại thu nhập cao cho nông dân.
Qua các lớp ĐTN, nông dân được nâng cao trình độ sản xuất; nhiều người trong số họ được học thêm nghề mới, như: Nấu ăn, gia công cơ khí, điện, nước, làm tóc, cắm hoa, mộc… Các nghề đào tạo đều nhằm mục đích nâng cao giá trị ngày công lao động cho nông dân. Ông Hoàng Thanh Đóa, Chủ tịch UBND xã Phủ Lý (Phú Lương) chia sẻ: Từ năm 2016 đến hết năm 2020, xã có 250 LĐNT được tham gia các lớp ĐTN. Sau đào tạo, những nông dân gắn bó với sản xuất nông nghiệp đều trở thành hộ có kinh tế ổn định.
Chia sẻ về câu chuyện giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, ông Trần Văn Nguyên, Giám đốc Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh đúc kết: Việc tổ chức ĐTN cho LĐNT là một trong các giải pháp của Nhà nước mang lại hiệu quả rất cụ thể. Điều này giúp người nông dân nâng cao nhận thức về khoa học kỹ thuật, thay đổi tư duy sản xuất, nhất là việc tạo cho họ có điểm tựa chắc chắn khi tiếp cận với nghề mới. Đó chính là niềm tin vào khả năng của bản thân. Từ đó họ dám buông bỏ những gì lạc hậu, biết nắm bắt cơ hội để “bắt được cá to hơn”.
Công tác giải quyết việc làm là nhiệm vụ trọng tâm luôn được huyện Phú Lương chú trọng thực hiện và đạt được kết quả cao trong những năm qua. Đây chính là tiền đề để huyện tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác giải quyết việc làm theo hướng bền vững trong giai đoạn tới nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của địa phương.
Thu nhập chính của hộ chị Lưu Thị Lương, xóm Thống Nhất 4, xã Vô Tranh là từ hoạt động sản xuất và kinh doanh Chè Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên. Trước đây, gia đình chị chủ yếu làm Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên theo phương pháp thủ công, chưa biết áp dụng khoa học kỹ thuật nên chất lượng sản phẩm Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên không cao, giá bán ra chỉ đạt khoảng 70 đến 100 nghìn đồng/kg. Kể từ sau khi được tham gia lớp đào tạo nghề chế biến Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên vào năm 2016, gia đình chị đã mạnh dạn áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Nhờ đó, giá trị sản phẩm Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên ngày càng được nâng lên.
Chị Lưu Thị Lương cho biết: Tham gia lớp học nghề này, tôi đã được hướng dẫn những kiến thức về kỹ thuật làm đất; chọn giống Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên năng suất cao phù hợp với điều kiện đất đai; thu hái, chế biến và bảo quản Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Từ những kiến thức đã học, tôi đã thay đổi quy trình làm Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên tại gia đình, đơn cử như là bón phân hữu cơ, phun thuốc sinh học đảm bảo thời gian quy định; sử dụng tôn quay và máy vò Inox để chế biến Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên… Nhờ đó, sản phẩm Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên sau khi sao đã thơm ngon và có chất lượng tốt hơn. Hiện nay, năng suất trung bình mỗi lứa Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên đạt 1,7 - 2 tạ Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên búp khô, giá bán ra đạt 150 đến trên 200 nghìn đồng/kg. Tính ra, lợi nhuận từ việc bán Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên dao động đạt từ 80-90 triệu đồng/năm (tăng khoảng 30 triệu đồng so với năm 2015).
Hộ chị Lưu Thị Lương là một trong rất nhiều hộ dân trên địa bàn xã đã được tham gia các lớp đào tạo nghề. Theo ông Trần Xuân Tứ, Phó Chủ tịch UBND xã Vô Tranh: Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, ngay từ đầu năm, chúng tôi đều tiến hành rà soát nhu cầu học nghề của nhân dân để xây dựng kế hoạch tổ chức lớp học với ngành nghề phù hợp với thế mạnh kinh tế của địa phương. Từ năm 2015 đến nay, xã đã phối hợp tổ chức được 6 lớp dạy nghề cho 185 người, trong đó chủ yếu là nghề chế biến Chè Tân Cương Thái Nguyên, Trà Tân Cương Thái Nguyên. Phần lớn học viên sau khi hoàn thành khóa học đều đã có việc làm theo đúng ngành nghề đã học.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2016-2020, huyện đã chỉ đạo các phòng chuyên môn, hội, đoàn thể phối hợp tổ chức đào tạo nghề cho hơn 4,3 nghìn lao động nông thôn, trong đó có tới 80% số lao động đã có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo.
Với lĩnh vực kinh tế chủ lực là nông nghiệp, đi liền với công tác đào tạo nghề, những năm qua, huyện còn chỉ đạo các phòng chuyên môn quan tâm xây dựng các dự án, mô hình sản xuất nông - lâm nghiệp gắn với dạy nghề để giải quyết việc làm cho lực lượng lao động tại chỗ. Từ năm 2015 đến nay, huyện đã phối hợp triển khai thực hiện được trên 70 mô hình, chương trình hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn. Qua đó đã góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, sản xuất của người dân, nâng cao thu nhập và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo hướng bền vững.
Bên cạnh đó, huyện còn đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, tư vấn học nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn và học sinh THPT. Hàng năm, huyện đã chỉ đạo các ban, ngành, các xã, thị trấn phối hợp với các tổ chức đoàn thể, nhà trường tổ chức tuyên truyền lồng nghép các chính sách Nhà nước về đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm… Không chỉ vậy, Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện cũng thường xuyên phối hợp với Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh tổ chức nhiều sàn giao dịch lưu động, ngày hội việc làm để giới thiệu lao động đi làm tại các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hoặc xuất khẩu lao động. Riêng năm 2020, toàn huyện đã tổ chức được 13 sàn giao dịch lưu động và 1 ngày hội việc làm cấp huyện, với gần 3 nghìn lao động được tư vấn.
Bằng những giải pháp đồng bộ trên, hàng năm, công tác giải quyết việc làm trên địa bàn huyện luôn đạt kết quả cao và vượt chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Từ năm 2015 đến nay, trung bình mỗi năm, huyện đã giải quyết việc làm cho trên 2,2 nghìn lao động (vượt 22% so với chỉ tiêu nghị quyết đề ra). Nhân dân có việc làm ổn định đã góp phần nâng cao chất lượng đời sống kinh tế của gia đình, tăng thu nhập. Hiện, thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn đạt khoảng 38 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,45%.
Trong nhiệm kỳ 2020-2025, huyện đặt ra chỉ tiêu tạo việc làm mới bình quân hàng năm đạt 1,6 nghìn lao động trở lên, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, theo bà Đặng Thị Thương, Phó Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện: Trong thời gian tới, Phòng sẽ tiếp tục tham mưu cho lãnh đạo huyện đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp, giới thiệu việc làm bằng nhiều hình thức đa dạng để cung cấp cho người lao động những thông tin cần thiết về chính sách của Nhà nước về giải quyết việc làm và giới thiệu việc làm tại các công ty, doanh nghiệp; tăng cường liên kết đào tạo giữa cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh… Ngoài ra, Phòng cũng sẽ tăng cường phối hợp với các phòng chuyên môn khác nhằm triển khai lồng ghép công tác giải quyết việc làm với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác…
Nhận xét
Đăng nhận xét