Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân bắt đầu trổ những búp non, được thưởng thức thứ Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân mới tinh

 Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân mới tinh, thơm ngát thì còn gì tuyệt vời hơn 

Trung tuần tháng Ba, mưa Xuân lất phất, lối nhỏ đưa tôi trở về ngôi nhà của bố mẹ với bao ký ức tuổi thơ dịu dàng. Vừa bước chân vào nhà tôi đã thấy bố cầm hộp Chè Thái Nguyên Hà Nội búp khô chỉ còn non nửa. Bố bảo, mùa này, Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân bắt đầu trổ những búp non, được thưởng thức thứ Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân mới tinh, thơm ngát thì còn gì tuyệt vời hơn. Nói rồi, bố đưa dẫn tôi ra khu đất bằng phẳng phía sau nhà bảo rằng đất này sắp được bàn giao cho Dự án xây dựng khu dân cư mới. Nơi ấy từng là đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội xanh mướt mát của gia đình chúng tôi.



Khi chị em tôi còn nhỏ, đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội (giống Trung du trồng bằng hạt) sau nhà, dưới bàn tay chăm bón của bố lúc nào cũng xanh mướt mát từ mùa Xuân sang mùa Hạ, lúc Thu sang. Chỉ khi Đông về, bố mới đốn cả đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội để chờ đón mưa xuân. Ăn Tết xong, mưa Xuân giăng mắc khắp nơi, trong nhà, ngoài ngõ, trên đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội. Gặp mưa, những búp Chè Thái Nguyên Hà Nội cựa mình “thức giấc”. Chỉ sau một tuần được “tắm” dưới làn mưa Xuân, cả đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội trông như tấm thảm xanh.



Ký ức ngày thơ bé ùa về khiến tôi thèm muốn được ngắm nhìn màu xanh non ấy, được nhấp chén nước Chè Thái Nguyên Hà Nội nóng bỏng lưỡi bố vừa rót và nhăn nhó khi nuốt thứ nước chan chát ấy. Rồi tôi lại chép miệng để cảm nhận cái vị ngọt ở đáy họng và thích thú khoe với bố rằng mình đã biết thưởng trà.

Miên man nghĩ về những đồi Chè Thái Nguyên Hà Nội xuân đang trổ búp non tơ, chúng tôi cho xe chạy chậm chậm vào vùng quê Đệ nhất danh trà Tân Cương (T.P Thái Nguyên). Ngày mưa nhưng đâu đó, chúng tôi vẫn bắt gặp ánh lửa bập bùng trong những nếp nhà. Nhiệt lượng tỏa ra từ những bếp lửa hồng đang giúp các “quả” tôn “biến” bao búp Chè Thái Nguyên Hà Nội tươi thành từng ấm trà thơm ngan ngát. Tiết trời ẩm ướt ngày Xuân không ngăn cản được sự hăng say lao động của những người làm Chè Thái Nguyên Hà Nội. Ông Lê Quang Nghìn, xóm Hồng Thái II, chủ cơ sở sản xuất Chè Thái Nguyên Hà Nội Hạnh Nghìn cho hay: Với những người sành trà, họ không bao giờ bỏ qua thứ Chè Thái Nguyên Hà Nội búp được thu hoạch, chế biến trong vụ xuân. Bởi vậy, khi thời tiết thuận lợi như hiện nay, chúng tôi phải tranh thủ thu hái để Chè Thái Nguyên Hà Nội mọc lứa mới.



Trước, người ta thường quan niệm hái búp Chè Thái Nguyên Hà Nội đúng kỹ thuật là phải một tôm hai lá. Nhưng giờ đây, người làm Chè Thái Nguyên Hà Nội Tân Cương nói riêng, người làm Chè Thái Nguyên Hà Nội trong tỉnh nói chung đã không còn duy trì cách thu hái truyền thống này. Đa phần họ sản xuất Chè Thái Nguyên Hà Nội theo nhu cầu thị trường hoặc theo đơn đặt hàng của người mua. Khách hàng thích Chè Thái Nguyên Hà Nội đinh hay Chè Thái Nguyên Hà Nội nõn… thì họ sẽ thu hái nguyên liệu đáp ứng đúng tiêu chí của người mua. Và quy trình chế biến, cung ứng Chè Thái Nguyên ở Hà Nội vụ xuân cũng nằm trong “quy luật” chung này. 





Chè Thái Nguyên Hà Nội sau khi thu hái cần được làm ráo nước nên phải rải đều trong những chiếc nong, nia xếp ngay ngắn trên sàn nhà. Lớp Chè Thái Nguyên Hà Nội được hong khô thường có độ dày từ 10 cm đến 15 cm. Người ta dùng quạt điện thổi cho những búp Chè Thái Nguyên Hà Nội nhanh ráo nước. Thu hái xong nhưng chưa chế biến, Chè Thái Nguyên Hà Nội có thể bảo quản nhưng không quá 6 tiếng vì để lâu, Chè Thái Nguyên Hà Nội bị ôi, chất lượng thành phẩm sẽ giảm đi rất nhiều, giá bán vì thế thấp hơn. Trong quá trình thu hái, vận chuyển và bảo quản, những người nông dân cần cù ấy không để Chè Thái Nguyên Hà Nội búp tươi bị dập, ôi ngốt. Sau đó, họ tiến hành diệt men, vò, rũ tơi Chè Thái Nguyên Hà Nội rồi mới cho vào tôn sao khô trên bếp lửa.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trà (Chè) Tân Cương Thái Nguyên đã mạnh dạn đi đầu trong việc chuyển hướng đến các sản phẩm Chè Thái Nguyên hữu cơ sạch.

Do quá trình xói mòn rửa trôi nên đất Chè (Trà) Tân Cương Thái Nguyên nhanh chóng bị bạc màu, nghèo dinh dưỡng.

Hiện trên địa bàn huyện có 169 điểm di tích lịch sử, trong đó 9 di tích được xếp hạng công nhận là di tích Quốc gia, 40 di tích được xếp hạng công nhận là di tích cấp tỉnh…